-
Bệnh gout (gút) là gì?
Bệnh gout (gút) còn có tên gọi khác là thống phong. Bệnh lý này được xác định là một dạng rối loạn chuyển hóa nhân purin diễn ra trong thận. Từ đó khiến thận suy yếu và không thể tiếp tục axit uric từ trong máu.
Axit uric được hình thành trong cơ thể thường vô hại. Sau khi hình thành chúng sẽ đào thải ra khỏi cơ thể bằng nước tiểu và phân. Đối với những bệnh nhân mắc bệnh gout, lượng axit uric tồn tại trong máu sẽ được tích tụ qua thời gian.
Trong trường hợp nồng độ axit uric quá cao, các tinh thể nhỏ của nó sẽ nhanh chóng hình thành. Những tinh thể này di chuyển và tập trung ở các khớp. Từ đó gây ra hiện tượng viêm kèm theo tình trạng sưng và đau đớn nghiêm trọng.
Bệnh gout (gút) đặc trưng bởi các đợt sưng và viêm khớp cấp tái phút. Bệnh lý này khiến bệnh nhân thường xuyên có cảm giác đau đớn đột ngột và nghiêm trọng vào giữa đêm kèm theo tình trạng sưng đỏ các khớp khi những đợt viêm cấp xuất hiện.
Tình trạng đau nhức và sưng đỏ do bệnh gút gây ra thường xảy ra tại các khớp ở ngón chân cái. Tuy nhiên các triệu chứng của bệnh cũng có thể làm ảnh hưởng đến một hoặc nhiều khớp khác ở chân. Cụ thể như khớp mắt cá chân, khớp đầu gối, khớp bàn chân.
Bệnh xảy ra không phổ biến ở khớp tay gồm khuỷu tay, cổ tay và bàn tay. Bệnh và các triệu chứng cũng có thể làm ảnh hưởng đến cột sống.
-
Nguyên nhân gây bệnh gout
Có hai nguyên nhân chính khiến bệnh bệnh gout hình thành và phát triển. Bao gồm nguyên phát (chiếm hầu hết các trường hợp) và thứ phát.
-
Nguyên nhân nguyên phát
- Theo kết quả thống kê có đến 95% những trường hợp mắc bệnh gout là nam giới. Bệnh xảy ra phổ biến hơn ở những người có độ tuổi từ 30 – 60 tuổi.
- Nhiều trường hợp chưa rõ nguyên nhân cụ thể khiến bệnh phát sinh.
- Duy trì chế độ ăn uống chứa nhiều purin. Cụ thể như tôm, cua, các loại nấm, lòng đỏ trứng, thận, gan…Việc xây dựng và duy trì chế độ ăn uống nhiều purin được xác định là yếu tố làm nặng hơn tình trạng bệnh.
- Duy trì thói quen sinh hoạt không phù hợp như uống ít nước, lười vận động, sử dụng quá nhiều rượu bia làm tăng lactate máu và khiến chức năng của thận bị suy giảm.
- Những người bị chấn thương, mắc phải một hoặc nhiều bệnh cấp tính, chức năng thận suy giảm, những người mới làm phẫu thuật có sức khỏe suy yếu.
-
Nguyên nhân thứ phát
- Bệnh hình thành do nguyên nhân di truyền (những rối loạn về gen): Hiếm gặp
- Do quá trình đào thải acid uric suy giảm hay tăng sản xuất acid uric hoặc cả hai: Mắc bệnh suy thận hoặc những bệnh lý có khả năng làm suy giảm chức năng thanh lọc acid uric của cầu thận, sử dụng thuốc lợi tiểu (thiazid, acetazolamid, furosemid…), bệnh bạch cầu cấp hoặc một số bệnh về máu khác, dùng thuốc kháng lao (pyrazinamid, ethambutol…), điều trị các bệnh ác tính với những loại thuốc ức chế tế bào.
Sử dụng thuốc lợi tiểu, thuốc kháng lao dài ngày là nguyên nhân gây bệnh gout
- Đối tượng nguy cơ bệnh gout
Theo kết quả thống kê, có khoảng 1/200 người trưởng thành mắc bệnh gout. Bệnh có thể phát sinh và tiến triển ở bất kỳ đối tượng nào, không phân biệt giới tính và độ tuổi. Tuy nhiên phụ nữ trong giai đoạn sau mãn kinh và nam giới có độ tuổi từ 30 – 50 tuổi thuộc nhóm đối tượng dễ mắc bệnh hơn. Bệnh ít khi xuất hiện ở trẻ em và người trẻ.
Những yếu tố nguy cơ có thể tác động đến sự hình thành và phát triển của bệnh gồm:
- Thừa cân béo phì
- Chế độ ăn uống nhiều hải sản và chất đạm
- Sử dụng nhiều rượu bia trong thời gian dài
- Giới tính và tuổi tác: Bệnh xảy ra nhiều hơn ở người lớn tuổi và ở nam giới
- Tiền sử gia đình mắc bệnh gout
- Tăng huyết áp
- Tăng cân quá mức
- Mới phẫu thuật hoặc mới bị chấn thương
- Chức năng của thận bị suy giảm hoặc bất thường
- Nguyên nhân khiến hàm lượng axit uric tích tụ trong cơ thể có thể phát sinh từ việc bệnh nhân sử dụng một số loại thuốc. Cụ thể như thuốc lợi tiểu, Aspirin, những loại thuốc có khả năng làm suy giảm hệ miễn dịch như cyclosporine, thuốc hóa trị liệu.
- Cơ thể bị mất nước
- Những người có tiền sử hoặc đang bị suy giảm chức năng thận, đái tháo đường, xơ vữa động mạch, bệnh tim, bệnh truyền nhiễm, tắc nghẽn mạch máu, tăng huyết áp.
-
Triệu chứng của bệnh gout
Các triệu chứng khó chịu của bệnh gout thường xuất hiện một cách đột ngột và xuất hiện vào ban đêm. Đối với một số trường hợp, bệnh gout không xuất hiện đồng thời với những dấu hiệu ban đầu. Những triệu chứng của bệnh lý này thường xảy ra khi bệnh nhân có tiền sử mắc bệnh gout mãn tính hoặc cấp tính.
Dưới đây là danh sách các triệu chứng điển hình của bệnh, gồm:
- Khớp có dấu hiệu sưng đỏ
- Cơn đau phát sinh ở các khớp một cách đột ngột, nghiêm trọng, dữ dội kèm theo tình trạng sưng tấy
- Khi sử dụng tay đụng vào hoặc vô tình va chạm, cơn đau ở khớp sẽ nặng nề hơn
- Vùng da xung quanh khớp ấm lên.
Hầu hết các dấu hiệu lâm sàng của bệnh gout thường xảy ra và kéo dài khoảng vài giờ trong 1- 2 ngày. Tuy nhiên ở một số trường hợp nghiêm trọng, cơn đau có thể phát sinh và kéo dài dai dẳng trong vòng vài tuần.
Trong trường hợp bệnh nhân không kiên trì sử dụng các loại thuốc điều trị bệnh gout, những triệu chứng của bệnh sẽ nhanh chóng phát triển và trở nên nghiêm trọng hơn.
- U cục tophi: Sự tích tụ tinh thể dưới da là đặc trưng của bệnh gout. Thông thường những khối này sẽ hình thành và phát triển xung quanh ngón chân, ngón tay, đầu gối và tai. Trong trường hợp không sớm chẩn đoán và áp dụng các biện pháp điều trị thích hợp kích thước của u tophi sẽ ngày càng gia tăng.
- Tổn thương khớp: Trong trường hợp bệnh nhân không sử dụng thuốc điều trị bệnh gout, các khớp chịu ảnh hưởng có thể bị tổn thương vĩnh viễn. Tình trạng này xảy ra lâu ngày sẽ làm tăng nguy cơ hình thành tổn thương xương và gây hại cho những khớp khác.
- Sỏi thận: Trong trường hợp bệnh nhân không áp dụng các biện pháp điều trị bệnh gout đúng cách, những tinh thể acid uric không chỉ gia tăng số lượng, tích tụ ở quanh khớp mà còn di chuyển đến thận và tích tụ tại cơ quan này. Từ đó gây bệnh sỏi thận.
-
Mức độ nguy hiểm của bệnh gout
Mặc dù những triệu chứng của bệnh gout nghiêm trọng, khiến bệnh nhân thường xuyên căng thẳng, mất ngủ và đau đớn nhưng gout được xác định là một bệnh lý lành tính. Bên cạnh đó bệnh và các triệu chứng của khó chịu có thể được kiểm soát bằng việc sử dụng thuốc. Ngoài ra người bệnh có thể thay đổi chế độ ăn uống để phòng ngừa đợt cấp.
Dựa trên mức độ tổn thương thực thể và mức độ nghiêm trọng của bệnh lý, bệnh gout được chia thành 3 giai đoạn. Bao gồm:
- Giai đoạn 1
Hàm lượng axit uric tồn tại trong máu đã tăng lên. Tuy nhiên các triệu chứng của bệnh gout vẫn chưa xuất hiện ở giai đoạn này. Thông thường bệnh nhân chỉ nhận thấy một hoặc nhiều triệu chứng đầu tiên của bệnh sau khi bị sỏi thận.
- Giai đoạn 2
Nồng độ axit uric ở giai đoạn 2 rất cao. Điều này khiến các tinh thể hình thành và tích tụ ở ngón chân hay còn gọi là nốt tophi. Những nốt tophi sau khi hình thành thường có biểu hiện chậm, có thể hàng chục năm sau cơn gout cấp tình đầu tiên mới xuất hiện nhưng cũng có những trường hợp sớm hơn.
Sau khi đã xuất hiện, khối lượng và số lượng của các nốt tophi có thể tăng nhanh chóng, trường hợp nặng có thể gây loét. Người bệnh thường nhìn thấy các nốt tophi trên sụn vành tai, sau đó đến khuỷu tay, gót chân, ngón chân cái, gân gót và mu bàn chân.
Ở giai đoạn 2, người bệnh sẽ thường xuyên nhận thấy cơn đau xuất hiện ở những khớp bị viêm nhưng không kéo dài. Sau một thời gian, những triệu chứng khác của bệnh gút sẽ xuất hiện. Những triệu chứng này xuất hiện với tần suất và cường độ ngày càng tăng.
- Giai đoạn 3
Các triệu chứng khó chịu của bệnh gout sẽ không biến mất. Bên cạnh đó những tinh thể axit uric sẽ gia tăng về mặt số lượng. Đồng thời vào nhiều khớp.
Hầu hết các bệnh nhân có bệnh gout phát triển và dừng lại ở giai đoạn 1 hoặc giai đoạn 2. Rất ít trường hợp có bệnh gút phát triển mạnh và chuyển sang giai đoạn 3. Điều này xuất hiện là do các triệu chứng khó chịu do bệnh gout gây ra đã được kiểm soát và điều trị đúng cách ở giai đoạn 1 hoặc giai đoạn 2.
-
Bệnh gout được chẩn đoán như thế nào?
Do các triệu chứng lâm sàng của bệnh gout tương tự như các bệnh xương khớp khác nên quá trình chẩn đoán căn bệnh này thường gặp nhiều khó khăn, rất khó để chẩn đoán chính xác.
Thông thường bệnh gút sẽ được chẩn đoán bằng việc áp dụng những bệnh pháp sau:
- Khám lâm sàng
- Hỏi bệnh sử bản thân và gia đình
- Xét nghiệm cận lâm sàng bao gồm: Siêu âm khớp, chụp X-quang khớp, tìm tinh thể acid uric bằng cách chọc hút dịch khớp, đo nồng độ acid uric trong máu bằng xét nghiệm máu, chụp CT Scanner khớp.
Chẩn đoán xác định
Để chẩn đoán xác định, bác sĩ chuyên khoa có thể sử dụng một trong những tiêu chuẩn sau:
Tiêu chuẩn Bennet và Wood (1968): Trong tất cả các tiêu chuẩn, tiêu chuẩn Bennet và Wood (1968) được áp dụng phổ biến và rộng rãi nhất ở Việt Nam. Bởi tiêu chuẩn này đơn giản, dễ nhớ và tương đối phù hợp với điều kiện bệnh nhân thiếu xét nghiệm (độ đặc hiệu 82,7%, độ nhạy cảm 70%).
Nhận thấy có tinh thể natri urat tồn tại trong các nốt tophi hoặc trong dịch khớp.
Hoặc có tối thiểu hai yếu tố trong số những yếu tố sau đây:
- Người bệnh có tiền sử hoặc đang bị sưng đau khớp bàn ngón chân cái với đặc tính khởi phát một cách đột ngột, cơn đau dai dẳng và dữ dội. Tuy nhiên tình trạng này có thể khỏi hoàn toàn trong vòng 14 ngày.
- Người bệnh có tiền sử hoặc đang có ít nhất 2 đợt sưng đau trên cùng một khớp với đặc tính khởi phát một cách đột ngột, cơn đau dai dẳng, dữ dội và có thể khỏi hoàn toàn trong vòng 14 ngày.
- Có nốt tophi
- Bệnh nhân đã từng hoặc hiện tại đang có đáp ứng tốt với thuốc colchicin (giảm đau, giảm viêm trong vòng 48 giờ).
Tiêu chuẩn của ILAR và Omeract (2000): Tiêu chuẩn của ILAR và Omeract (2000) có độ đặc hiệu 78,8% và độ nhạy 70%.
Trong dịch khớp xuất hiện tinh thể thể urat, hoặc / và:
Kết quả xét nghiệm tìm thấy tinh thể urat đặc trưng tồn tại trong nốt tophi. Đối với trường hợp này, các xét nghiệm thời được chỉ định gồm sử dụng kính hiển vi phân cực hoặc phương pháp hóa học, hoặc / và:
Tồn tại 6 trong số 12 triệu chứng lâm sàng, kết quả X-quang và xét nghiệm sau:
- Đỏ vùng khớp
- Tình trạng viêm tiến triển tối đa trong vòng một ngày
- Viêm ở một khớp
- Xuất hiện hơn một cơn viêm khớp cấp
- Đau, sưng khớp bàn ngón chân I
- Viêm khớp cổ chân một bên
- Viêm khớp bàn ngón chân I ở một bên
- Có thể nhìn thấy được nốt tophi
- Đay và sưng khớp không đối xứng
- Tăng acid uric máu (đối với nữ ≥ 360 mmol/l, đối với nam ≥ 420 mmol/l)
- Cấy vi khuẩn âm tính
- Kết quả X-quang cho thấy không có hình khuyết xương, nang dưới vỏ xương.
- Các phương pháp điều trị bệnh gout
Sau khi có kết quả chẩn đoán bệnh gout, bác sĩ chuyên khoa sẽ dựa vào tổn thương thực thể, kích thước tophi và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng (viêm, đau, sưng, số khớp bị tổn thương…) để lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp.
Nguyên tắc điều trị bệnh gout
- Tiến hành chữa trị bệnh viêm khớp ngay trong cơn khớp cấp
- Dự phòng lắng đọng urat trong các mô, dự phòng tái phát cơn gout và dự phòng biến chứng phát sinh thông qua quá trình điều trị hội chứng tăng acid uric máu với mục đích điều trị và kiểm soát hàm lượng acid uric máu dưới 360 mmol/l (60 mg/l) đối với những trường hợp bị gout chưa có nốt tophi, acid uric máu dưới 320 mmol/l (50 mg/l) đối với những trường hợp bị gout có nốt tophi.